Bước tới nội dung

Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tây Ban Nha
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Biệt danhLa Furia Roja (Cơn thịnh nộ màu đỏ)[1][2]
La Roja (Đội quân đỏ)
La Furia (Cơn thịnh nộ)
Liên đoàn châu lụcUEFA (châu Âu)
Huấn luyện viên trưởngLuis de la Fuente
Đội trưởngAlvaro Morata
Thi đấu nhiều nhấtSergio Ramos (180)[3]
Ghi bàn nhiều nhấtDavid Villa (59)
Mã FIFAESP
Áo màu chính
Áo màu phụ
Hạng FIFA
Hiện tại 8 Giữ nguyên (ngày 4 tháng 4 năm 2024)[4]
Cao nhất1 (Tháng 7 năm 2008-tháng 6 năm 2009
Tháng 10 năm 2009–tháng 3 năm 2010
Tháng 7 năm 2010–tháng 7 năm 2011
Tháng 10 năm 2011–tháng 7 năm 2014)
Thấp nhất25 (Tháng 3 năm 1998)
Hạng Elo
Hiện tại 3 Tăng 2 (30 tháng 11 năm 2022)[5]
Cao nhất1 (Tháng 9 năm 1920-tháng 5 năm 1924
Tháng 9–tháng 12 năm 1925
Tháng 6 năm 2008–tháng 6 năm 2009
Tháng 7 năm 2010–tháng 6 năm 2013)
Thấp nhất19 (Tháng 6–tháng 10 năm 1969
Tháng 11 năm 1991)
Trận quốc tế đầu tiên
 Tây Ban Nha 1–0 Đan Mạch 
(Bruxelles, Bỉ; 28 tháng 8 năm 1920)
Trận thắng đậm nhất
 Tây Ban Nha 13–0 Bulgaria 
(Madrid, Tây Ban Nha; 21 tháng 5 năm 1933)
Trận thua đậm nhất
 Ý 7–1 Tây Ban Nha 
(Amsterdam, Hà Lan; 4 tháng 6 năm 1928)
 Anh 7–1 Tây Ban Nha 
(Luân Đôn, Anh, 9 tháng 12 năm 1931)
Giải thế giới
Sồ lần tham dự16 (Lần đầu vào năm 1934)
Kết quả tốt nhấtVô địch (2010)
Giải vô địch bóng đá châu Âu
Sồ lần tham dự12 (Lần đầu vào năm 1964)
Kết quả tốt nhấtVô địch (1964, 2008, 2012, 2024)
UEFA Nations League
Sồ lần tham dự2 (Lần đầu vào năm 2021)
Kết quả tốt nhấtVô địch (2023)
Cúp Liên đoàn các châu lục
Sồ lần tham dự2 (Lần đầu vào năm 2009)
Kết quả tốt nhấtÁ quân (2013)
Thành tích huy chương Thế vận hội
Bóng đá nam
Huy chương bạc – vị trí thứ hai Antwerp 1920 Tokyo 2020

Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Selección de fútbol de España) là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha và đại diện cho Tây Ban Nha trên bình diện quốc tế chính thức kể từ năm 1920 bắt đầu bằng trận đấu với Đan Mạch. Tây Ban Nha có những biệt danh như La Roja ("Đội Quân Màu Đỏ"), La Furia Roja ("Cơn Thịnh Nộ Màu Đỏ"), La Furia Española ("Cơn Thịnh Nộ Của Tây Ban Nha") hay đơn giản là La Furia ("Cơn Thịnh Nộ"). Tây Ban Nha trở thành thành viên chính thức của FIFA vào năm 1904 nhưng Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha lại được thành lập vào năm 1909. Tây Ban Nha đã tham dự 15 trên 21 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới (liên tục kể từ năm 1978) và 10 trên 15 lần tổ chức Giải vô địch bóng đá châu Âu.

Tây Ban Nha nằm trong số 8 đội tuyển từng vô địch thế giới, ghi dấu ấn với ba danh hiệu giành được ở World Cup 2010, Euro 20082012, viết nên trang sử độc nhất vô nhị đó là vô địch ba giải đấu lớn liên tiếp. Tây Ban Nha là đội tuyển đầu tiên giành 4 chức vô địch châu Âu sau khi lên ngôi tại Euro 2024. Tây Ban Nha cũng từng giữ kỷ lục có số trận bất bại liên tiếp nhiều nhất thế giới với 35 trận kéo dài trong gần 3 năm (đến khi đội tuyển Ý phá vỡ kỉ lục vào năm 2021 với 37 trận bất bại) và liên tục nhận giải thưởng "Đội bóng của năm" cả 6 năm hoàng kim từ 2008 đến 2013.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha được thành lập vào năm 1920, đại diện cho Tây Ban Nha tham dự Thế vận hội Mùa hè tổ chức tại Bỉ trong năm đó.

Tây Ban Nha có trận đấu đầu tiên vào ngày 29 tháng 8 năm 1920 đấu với Đội tuyển Đan Mạch. Trận đấu kết thúc với chiến thắng 1–0 cho Tây Ban Nha. Ở trận đấu tiếp theo, Tây Ban Nha không thể giành chiến thắng khi để thua Bỉ 1–3.

Những cuộc nội chiếnChiến tranh thế giới lần thứ hai làm Tây Ban Nha không thể chơi 1 trận đấu nào tại World Cup 1934World Cup 1950.

Tây Ban Nha có danh hiệu đầu tiên khi đánh bại Hungary 2–1 để tiến tới trận chung kết và thi đấu với Liên Xô. Tây Ban Nha tiếp tục giành chiến thắng 2–1 để có danh hiệu lớn đầu tiên sau 44 năm.

World Cup 1982

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1976, Tây Ban Nha được chọn là chủ nhà của World Cup 1982, được kỳ vọng rất cao nhưng Tây Ban Nha chỉ vào được tới vòng 2.

Cựu huấn luyện viên Real Madrid Miguel Muñoz, người đã dẫn dắt Tây Ban Nha trong năm 1969, trở lại và huấn luyện tuyển. Vòng loại Euro 1984 thì Tây Ban Nha nằm ở bảng 7 cùng với Hà Lan, Ireland, IcelandMalta. Trong trận đấu cuối cùng, Tây Ban Nha cần thắng ít nhất trên 11 bàn để có thể vượt qua Hà Lan ở vị trí dẫn đầu. Sau khi dẫn 3–1. ở hiệp 1, hiệp 2 Tây Ban Nha ghi thêm 9 bàn thắng biến tỉ số thành 12–1, dẫn đầu nhóm để tới vòng chung kết. Tại vòng chung kết, Tây Ban Nha nằm ở bảng B cùng với Romania, Bồ Đào Nha và Tây Đức, sau hai trận hòa 1–1, Tây Ban Nha thắng 1–0 trước Tây Đức ở trận đấu cuối cùng để đứng đầu bảng B. Bán kết họ gặp Đan Mạch, hòa 1–1 và thắng 5–4 trên chấm penalty. Sau đó Tây Ban Nha đã bị Pháp đánh bại 2–0 ở chung kết và để tuột mất chức vô địch.

Euro 2000 và World Cup 2002

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi thất bại ở trận đấu đầu tiên của vòng loại Euro 2000 (thua Síp 2-3), Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha quyết định sa thải huấn luyện viên Javier Clemente, José Antonio Camacho lên thay. Tây Ban Nha thắng những trận còn lại của vòng bảng. Nhưng thất bại ở tứ kết khi để thua Pháp 2-1 và chấp nhận dừng bước.

Vòng loại World Cup 2002 diễn ra đúng như mong đợi,đứng đầu bảng đấu có rất nhiều đối thủ mạnh. Tại VCK World Cup, Tây Ban Nha đứng đầu bảng B với ba trận toàn thắng. Ở vòng tứ kết thì Tây Ban Nha đối đầu với Hàn Quốc và để thua trên chấm luân lưu.

Euro 2004 diễn ra tại Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha rơi vào bảng A với Bồ Đào Nha, NgaHy Lạp. Họ đánh bại Nga 1–0, hòa Hy Lạp 1–1 nhưng lại thất bại trước Bồ Đào Nha và không đủ điểm để vượt qua vòng bảng. Iñaki Sáez bị sa thải 1 tuần sau đó, Luis Aragones lên thay.

World Cup 2006, Thế hệ vàng 2007 và Euro 2008

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại World Cup 2006 tổ chức tại Đức, Tây Ban Nha lọt vào bảng H và xuất sắc thắng tất cả các trận đấu nhưng lại thất bại trước Pháp 1–3 tại vòng 2. Họ được an ủi bằng giải thưởng Fair-play cho Tây Ban Nha và Brazil.[6]

Sau khi bị loại khỏi giải, Luis Aragonés nhận ra đội bóng không có đủ thể lực và tranh chấp không quyết liệt để gây khó khăn cho đối thủ, họ bắt đầu tập trung nghiên cứu Tiki-Taka, chiến thuật sử dụng các đường chuyền ngắn, nâng cao tỉ lệ kiểm soát bóng.

Các cầu thủ Tây Ban Nha ăn mừng chức vô địch Euro 2008 tại Madrid.

Vòng loại Euro 2008, Tây Ban Nha rơi vào bảng F, đứng đầu bảng với 28 trên 36 điểm có thể giành được. Tại lễ bốc thăm cho vòng chung kết,đội rơi vòng bảng D, có trận đấu mở màn với Nga, chiến thắng thuyết phục với tỉ số 4–1. Trận đấu thứ 2 với Thụy Điển, Tây Ban Nha sớm mở tỉ số ở phút thứ 15 nhờ công của Fernando Torres, bị thủng lưới sớm, Thụy Điển dồn lên tấn công. Phút thứ 34, Zlatan Ibrahimovic san bằng tỉ số 1–1 với pha lừa bóng rồi tung ra cú sút quyết đoán.Thế trận sau đó diễn ra khá bế tắc, vào phút bù giờ cuối cùng, sau pha phản công nhanh, David Villa ghi bàn ấn định tỉ số 2–1, giúp Tây Ban Nha đoạt vé sớm vào tứ kết. Trận đấu còn lại Tây Ban Nha thắng nhà đương kim vô địch Hy Lạp 2–1, giành điểm tối đa sau 3 trận đấu. Đương kim vô địch thế giới lúc đó-Ý là đối thủ của họ trong trận tứ kết, 120 phút kết thúc với tỷ số 0–0, Tây Ban Nha chiến thắng ở loạt luân lưu với tỉ số 4-2. Trong loạt sút luân lưu, trừ lần Guiza không thắng được Buffon ở loạt sút thứ tư, Tây Ban Nha đã thực hiện thành công cả bốn quả luân lưu còn lại bằng những cú sút lạnh lùng quyết đoán của Villa, Santi Cazorla, Senna rồi Fabregas. Nhưng công lớn nhất phải thuộc về thủ môn Iker Casillas. Trong một ngày thi đấu xuất thần, anh đã phán đoán chuẩn xác, đổ người từ chối các pha dứt điểm của Daniele De Rossi ở loạt sút thứ hai rồi Antonio Di Natale ở loạt sút thứ tư. Tây Ban Nha gặp lại Nga tại bán kết và cũng đánh bại họ một lần nữa với chiến thắng 3-0.[7]

Trận chung kết tại Sân vận động Ernst Happel, Viên. Tây Ban Nha đánh bại Đức 1-0 với bàn thắng duy nhất của Fernando Torres ở phút thứ 33.[8] Đây là danh hiệu lớn đầu tiên của Tây Ban Nha kể từ năm 1964.Tây Ban Nha cũng là đội ghi được nhiều bàn nhất với 12 bàn thắng, David Villa giành danh hiệu vua phá lưới, Xavi được bầu chọn là cầu thủ hay nhất giải, và có tới chín cầu thủ của Tây Ban Nha được chọn vào đội hình tiêu biểu của giải.[9]

Cúp Liên đoàn các châu lục 2009

[sửa | sửa mã nguồn]

Luis Aragonés đã quyết định ra đi trong vinh quang sau khi giành chức vô địch Euro 2008, người lên thay là Vicente del Bosque[10].

Năm 2008,David Villa ghi được 16 bàn/15 trận, phá vỡ kỷ lục của Raúl. Ngày 11 tháng 2 năm 2009, anh tiếp tục lập kỷ lục với bàn thắng vào lưới Đội tuyển Anh, trở thành cầu thủ Tây Ban Nha đầu tiên ghi bàn trong sáu trận liên tiếp.

Tây Ban Nha thắng cả ba trận vòng bảng của Confed Cup 2009. Trận thắng New Zealand 5-0, Torres cũng lập kỷ lục khi lập cú hat-trick nhanh nhất lịch sử. Hai trận đấu còn lại, Tây Ban Nha thắng Iraq 1-0 và thắng Nam Phi 2-0.

Ngày 24 tháng 6, kỉ lục bất bại 35 trận liên tiếp của Tây Ban Nha bị phá vỡ khi họ để thua Mỹ 2-0 ở bán kết. Tây Ban Nha đánh bại Nam Phi 3-2 sau hiệp phụ tại trận tranh giải ba.[11]

World Cup 2010

[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm:Giải vô địch bóng đá thế giới 2010, Trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 2010

Tình huống đá phạt góc của Tây Ban Nha trong trận đấu với Bồ Đào Nha tại vòng knock-out World Cup 2010.

Tại World Cup 2010, Tây Ban Nha nằm ở bảng H cùng với Thụy Sĩ, HondurasChile. Tây Ban Nha thua 1-0 ở trận mở màn với Thụy Sĩ. Ở trận đấu thứ hai, họ đánh bại Honduras với hai bàn thắng của David Villa. Trận đấu cuối cùng của vòng bảng, vào ngày 25/6 với Chile kết thúc với chiến thắng 2-1[12].Tây Ban Nha giành quyền vào vòng knock-out, thắng Bồ Đào Nha 1-0, tứ kết họ tiếp tục thắng Paraguay 1-0 để giành quyền vào bán kết.[13]

Tây Ban Nha lần đầu tiên vào đến một trận Chung kết World Cup từ năm 1950 khi đánh bại Đức 1-0 ở bán kết với bàn thắng duy nhất tới từ cú đánh đầu của Carles Puyol.[14]

Trận chung kết với Hà Lan diễn ra không bàn thắng trong suốt 90 phút, buộc hai đội phải bước vào hiệp phụ. Andrés Iniesta ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu từ đường kiến tạo của Cesc Fàbregas ở phút thứ 116 tại hiệp phụ thứ 2. Qua đó, đội bóng đã giành chức vô địch World Cup lần đầu tiên.[15]

Tây Ban Nha cũng giành được giải thưởng Fair play của FIFA ngoài ra một số cầu thủ trong đội hình cũng có danh hiệu. Thủ môn Iker Casillas giành danh hiệu Găng tay vàng[16], David Villa giành Quả bóng đồng và chiếc giày bạc.

Đường tới vinh quang Euro 2012: Nhà vô địch châu Âu lần thứ 3

[sửa | sửa mã nguồn]
Các cầu thủ Tây Ban Nha sau khi vô địch Euro 2012.

Vòng loại Euro 2012, Tây Ban Nha nằm ở bảng I với tỉ lệ chiến thắng 100%. Họ đánh bại CH Séc, Scotland, LitvaLiechtenstein để tiến vào vòng chung kết.

Đội trưởng Iker Casillas ăn mừng chức vô địch Euro 2012

VCK Tây Ban Nha nằm ở bảng C, cùng với Ý, CroatiaCộng hòa Ireland. Trận mở màn với Ý vào ngày 10/6/2012, Ý vượt lên dẫn trước ở phút thứ 61, sau tình huống tấn công chớp nhoáng, Pirlo tung ra đường chuyền chính xác, tiền đạo vào thay người Antonio Di Natale dứt điểm hiểm hóc mở tỉ số của trận đấu,những phút sau đó Tây Ban Nha tìm lại được thế trận, và họ đã có bàn gỡ nhờ công của Cesc Fàbregas[17].

Trận đấu tiếp theo, với Cộng hòa Ireland vào ngày 14 tháng 6, tiền đạo của Chelsea Fernando Torres lập cú đúp, hai bàn thắng còn lại của David SilvaCesc Fàbregas giúp Tây Ban Nha đại thắng 4-0.[18] Trận đấu cuối cùng của vòng bảng với Croatia vào ngày 18/6,khó khăn hơn các trận đấu khác, Croatia đã có những cơ hội ghi bàn khá rõ rệt. Khi trận đấu dần đi đến hồi kết, phút thứ 88, Jesús Navas ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu, giúp Tây Ban Nha tiến tới tứ kết.[19]

Tứ kết họ đối đầu với Pháp vào ngày 23 tháng 6 năm 2012, Tây Ban Nha mở tỷ số trận đấu, với cú đánh đầu của Xabi Alonso. Họ hoàn tất chiến thắng khi Pedro bị phạm lỗi trong vòng cấm địa, Alonso ghi bàn từ chấm penalty. Giúp Tây Ban Nha thắng 2-0, Xabi Alonso đánh dấu cột mốc 100 trận của anh cho tuyển [20].

Bán kết, Tây Ban Nha gặp Bồ Đào Nha, đội đã đánh bại Cộng hòa Czech ở tứ kết với bàn thắng muộn của Cristiano Ronaldo. Bồ Đào Nha ép sân ngay từ những phút đầu, tạo ra nhiều cơ hội nhưng không thể chuyển hóa thành bàn thắng. Tây Ban Nha vẫn bình tĩnh phòng ngự buộc trận đấu phải đi vào loạt sút luân lưu. Cao trào được đẩy lên khi Bruno Alves sút hỏng quả penalty thứ 4. Kết quả Tây Ban Nha giành chiến thắng 4-2 trên chấm luân lưu.[21] Đây đã là trận chung kết Euro thứ tư của họ, lần trước vào các năm 1964, 19842008.

Chung kết Euro 2012, Tây Ban Nha giành chức vô địch khi ghi bốn bàn thắng vào lưới Ý. Hiệp 1, họ nhanh chóng kiểm soát thế trận với hai bàn thắng ở phút thứ 14 do công của David Silva và 41 của Jordi Alba. Hiệp hai, Ý sử dụng lượt thay người cuối cùng của mình, thay Antonio Di Natale bằng Thiago Motta, ngay sau khi vào sân, Motta đã bị chấn thương gân kheo, vì đã hết quyền thay người, Ý chỉ còn thi đấu với 10 cầu thủ. Tây Ban Nha ghi thêm hai bàn thắng trong hiệp 2, nhờ công của Fernando TorresJuan Mata ở phút thứ 84 và 88, giúp Tây Ban Nha vô địch Euro 2012 lần thứ hai liên tiếp[22]. Đây cũng là danh hiệu thứ 3 liên tiếp của họ sau (Euro 2008World Cup 2010). Fernando Torres kết thúc giải với 3 bàn thắng và nhận danh hiệu vua phá lưới.

Tây Ban Nha cũng lập nên một vài kỷ lục sau chức vô địch:

  • Tây Ban Nha trở thành đội bóng đầu tiên vô địch ba giải đấu lớn liên tiếp (Euro 2008, World Cup 2010Euro 2012)
  • Trận Chung kết Euro 2012 có cách biệt lớn nhất (4-0) nhiều hơn 1 bàn so với trận chung kết năm 1972 (Tây Đức 3-0 Liên Xô)
  • Tây Ban Nha trở thành đội bóng thành công nhất lịch sử Euro, cùng với đội tuyển Đức (ba danh hiệu vô địch)
  • Tây Ban Nha trở thành đội có hiệu số bàn thắng lớn nhất lịch sử Euro, 12-1.

Cúp Liên đoàn các châu lục 2013

[sửa | sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha bắt đầu Confed Cup 2013 bằng trận thắng 2-1 trước Uruguay, trận đấu mà Tây Ban Nha kiểm soát hoàn toàn thế trận, tung ra 9 cú sút trúng đích, trong khi Uruguay chỉ có 1 và cũng là cú sút mang lại bàn thắng của Luis Suárez[23]. Trận đấu thứ hai của vòng bảng với Tahiti, Tây Ban Nha đã phá kỷ lục về trận thắng đậm nhất của FIFA, 10-0, với cú poker của Fernando Torres và hat-trick của David Villa[24]. Trận đấu cuối cùng họ thắng Nigeria 3-0, hoàn tất vòng bảng với ba trận toàn thắng.[25]

Trong trận bán kết với Đội tuyển Ý, hòa 0-0 trong cả thời gian đá chính và hiệp phụ, Tây Ban Nha đã thắng 7-6 trên chấm penalty khi Jesús Navas thực hiện thành công còn Bonucci đá hỏng[26], giúp Tây Ban Nha tiến tới trận chung kết Confed Cup đầu tiên, nhưng lại để thua Brazil 3-0. Họ được an ủi với danh hiệu chiếc giày vàng cho Fernando Torres.

Giải vô địch bóng đá thế giới 2014

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại giải đấu này, với tư cách đương kim vô địch, Tây Ban Nha được đánh giá là một trong những ứng cử viên của chức vô địch[27]. Họ được bốc thăm vào một bảng đấu được đánh giá không khó khăn gồm Hà Lan, ChileÚc. Trận đấu đầu tiên của họ tái hiện trận chung kết World Cup 2010. Tây Ban Nha dẫn trước nhờ cú phạt đền thành công của Xabi Alonso, nhưng Hà Lan mới chứng tỏ họ là đội mạnh hơn. Tây Ban Nha mất điều khiển trận đấu và thất bại với tỉ số bất ngờ 1-5[28]. Trận tiếp theo gặp Chile để duy trì hi vọng nhưng Tây Ban Nha tiếp tục thua 0-2[29]. Với hai trận thất bại, Tây Ban Nha trở thành một trong những đội đầu tiên bị loại khỏi giải này và gia nhập vào danh sách những nhà đương kim vô địch thế giới bị chính thức loại ở vòng bảng World Cup cùng với Brasil năm 1966, Pháp năm 2002Ý năm 2010 (Ý cũng bị loại từ vòng bảng World Cup 1950). Ở trận đấu cuối cùng, Tây Ban Nha thắng Úc với tỉ số 3-0 để kết thúc giải ở vị trí thứ ba bảng đấu[30].

Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016

[sửa | sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha đến với Euro 2016 với mục tiêu là để bảo vệ thành công ngôi vô địch. Ở giải đấu này, Tây Ban Nha nằm cùng bảng với các đội Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng hòa SécCroatia; kết thúc vòng bảng, Tây Ban Nha xếp thứ hai sau Croatia, lọt vào vòng 16 đội nhưng thất bại chung cuộc trước Ý. Sau Euro 2016, huấn luyện viên Vicente del Bosque giã từ sự nghiệp huấn luyện.

Giải vô địch bóng đá thế giới 2018

[sửa | sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha mở màn World Cup 2018 với trận hòa 3-3 trước Bồ Đào Nha, đây là trận đấu TBN có 3 bàn thắng của Diego CostaNacho Fernández còn BĐN là hattrick của Cristiano Ronaldo. Trận đấu thứ hai, Tây Ban Nha dành chiến thắng 1-0 trước Iran với bàn thắng của Diego Costa. Lượt trận thứ 3, TBN hòa 2-2 Maroc bằng các bàn thắng của Isco, Iago Aspas để có ngôi đầu bảng. Bước vào vòng 16 đội, Tây Ban Nha gặp chủ nhà Nga, trận đấu mở màn bằng bàn phản lưới nhà của lão tướng Sergei Ignashevich bên phía Nga, phút 41 trận đấu Gerard Piqué để bóng chạm tay vô duyên trong vòng cấm và Artem Dzyuba chớp lấy cơ hội để gỡ hòa. Hai đội kéo nhau vào penalty, tại đây Tây Ban Nha để thủ thành Igor Akinfeev cản phá 2 quả pen và thua với tỉ số 4-3 trên loạt đấu súng. Fernando Hierro cùng các học trò đã phải dừng bước đầy tiếc nuối.

Phong cách thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiqui-Taca là lối chơi sử dụng các đường chuyền ngắn nhằm nâng cao tỉ lệ kiểm soát bóng. Sơ đồ chiến thuật lý tưởng cho Tiqui-Taca là 4-3-3, hay đôi khi có biến thể là 4-1-2-33-4-3. Bên cạnh đó, đi kèm phải là lối tấn công phối hợp nhómphòng ngự khu vực đạt độ ăn ý cao.

Tiqui-Taca là chuyềnchạy. Bóng được chuyền sệt, và chuyền liên tục từ cầu thủ này sang cầu thủ khác. Các cầu thủ không có bóng phải linh động di chuyển để đón bóng. Nhưng vì chỉ tăng tốc và di chuyển trong phạm vi ngắn nên cầu thủ mất sức không nhiều; ngược lại, đội đối phương nếu không thích nghi sẽ bị mất sức do đeo bám và dễ bị rối loạn đội hình.

Barcelona và Tây Ban Nha đã gây dựng một tiqui-taca gần như hoàn hảo và nó đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới. Tất cả các đội trẻ của Barcelona hiện giờ đều phải học đá và vận hành chiến thuật theo kiểu tiqui-taca.

Logo và trang phục thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Logo chính thức của Đội tuyển Tây Ban Nha là hình Quốc huy với phía trên là số 1909 tương ứng với năm thành lập Liên đoàn, phía dưới là một dải băng in 4 chữ "RFEF" là viết tắt của Real Federación Española de Fútbol ("Liên đoàn Bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha" trong tiếng Tây Ban Nha) và một quả bóng ở giữa. Tại các kỳ World Cup, một ngôi sao vàng sẽ được in lên trên cùng, tượng trung cho một lần vô địch.

Trang phục thi đấu truyền thống của Đội tuyển Tây Ban Nha là áo màu đỏ, quần xanh đậm hoặc đen, tất đỏ hoặc đen hay xanh đậm. Trang phục thi đấu phụ hiện tại là màu áo trắng với hoa văn màu đỏ hoặc vàng, quần trắng và tất trắng. Đội cũng từng sử dụng màu áo thi đấu phụ là màu đen hay xanh da trời.

1920-21
1921-22
1922-24
1924-31
1931-36
1936-38
1938-45
1945-47
1947-59
1959-79
1959-79 (sân khách)
1979-81
1981-83
1984-86
1984-86 (sân khách)
1986-87
1986-87 (sân khách)
1988-91
1988-91 (sân khách)
1988-91 (thứ ba)
1991-92
1992-94
1994-96
1994-96 (sân khách)
1996-98
1998-2000
1998-2000 (sân khách)
2000-02
2002-04
2004-06
2004-06 (sân khách)
2006-08
2006-08 (sân khách)
2008-09
2008-10 (sân khách)
2009-10
2010-11
2010-11 (sân khách)
2011-12
2011-12 (sân khách)
2012-13
2012-14 (sân khách)
2013-14
2014-15
2014-15 (sân khách)
2015-
2015- (sân khách)

Tài trợ trang phục

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà tài trợ Thời gian
Không rõ 1920-1981
Đức Adidas 1981-1983
Pháp Le Coq Sportif 1984-1992
Đức Adidas 1992-nay

Thành tích tại các giải đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá thế giới

[sửa | sửa mã nguồn]
Tây Ban Nha giành chức vô địch World Cup 2010Nam Phi.
Năm Kết quả St T H [31] B Bt Bb
1930 Không tham dự
Ý 1934 Tứ kết 3 1 1 1 4 3
1938 Không tham dự vì nội chiến
Brasil 1950 Hạng tư 6 3 1 2 10 12
1954 Không vượt qua vòng loại
1958
Chile 1962 Vòng 1 3 1 0 2 2 3
Anh 1966 3 1 0 2 4 5
1970 Không vượt qua vòng loại
1974
Argentina 1978 Vòng 1 3 1 1 1 2 2
Tây Ban Nha 1982 Vòng 2 5 1 2 2 4 5
México 1986 Tứ kết 5 3 1 1 11 4
Ý 1990 Vòng 2 4 2 1 1 6 4
Hoa Kỳ 1994 Tứ kết 5 2 2 1 10 6
Pháp 1998 Vòng 1 3 1 1 1 8 4
Hàn QuốcNhật Bản 2002 Tứ kết 5 3 2 0 10 5
Đức 2006 Vòng 2 4 3 0 1 9 4
Cộng hòa Nam Phi 2010 Vô địch 7 6 0 1 8 2
Brasil 2014 Vòng 1 3 1 0 2 4 7
Nga 2018 Vòng 2 4 1 3 0 7 6
Qatar 2022 4 1 2 1 9 3
CanadaMéxicoHoa Kỳ 2026 Chưa xác định
MarocBồ Đào NhaTây Ban Nha 2030 Đồng chủ nhà
Ả Rập Xê Út 2034 Chưa xác định
Tổng cộng 16/22
1 lần vô địch
67 31 17 19 108 75

Giải vô địch bóng đá châu Âu

[sửa | sửa mã nguồn]
Các cầu thủ Tây Ban Nha ăn mừng chức vô địch Euro 2012
Năm Kết quả St T H [31] B Bt Bb
1960 Bỏ cuộc ở vòng loại
Tây Ban Nha 1964 Vô địch 2 2 0 0 4 2
1968 Không vượt qua vòng loại
1972
1976
Ý 1980 Vòng 1 3 0 1 2 2 4
Pháp 1984 Á quân 5 1 3 1 4 5
Đức 1988 Vòng 1 3 1 0 2 3 5
1992 Không vượt qua vòng loại
Anh 1996 Tứ kết 4 1 3 0 4 3
Bỉ Hà Lan 2000 4 2 0 2 7 7
Bồ Đào Nha 2004 Vòng 1 3 1 1 1 2 2
Áo Thụy Sĩ 2008 Vô địch 6 5 1 0 12 3
Ba Lan Ukraina 2012 6 4 2 0 12 1
Pháp 2016 Vòng 2 4 2 0 2 5 4
Liên minh châu Âu 2020 Bán kết 6 2 4 0 13 6
Đức 2024 Vô địch 7 7 0 0 15 4
Cộng hòa Ireland Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland 2028 Chưa xác định
Ý Thổ Nhĩ Kỳ 2032
Tổng cộng 12/17
4 lần vô địch
53 28 15 10 83 46

Cúp Liên đoàn các châu lục

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Kết quả St T H [31] B Bt Bb
1992 Không giành quyền tham dự
1995
1997
1999
2001
2003
2005
Cộng hòa Nam Phi 2009 Hạng ba 5 4 0 1 11 4
Brasil 2013 Á quân 5 3 1 1 15 4
2017 Không giành quyền tham dự
Tổng cộng 2/10
1 lần á quân
10 7 1 2 26 8

UEFA Nations League

[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa giải Hạng đấu Bảng Pld W D L GF GA RK
2018–19 A 4 4 2 0 2 12 7 7th
Ý 2020–21 A 4 8 4 2 2 16 6 2nd
Hà Lan 2022–23 A 2 8 4 3 1 10 6 1st
Tổng cộng 20 10 5 5 38 19 1st

Thế vận hội

[sửa | sửa mã nguồn]
  • (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Năm Kết quả Thứ hạng Pld W D L GF GA
Bỉ 1920 Huy chương bạc 2nd 5 4 0 1 9 5
Pháp 1924 Vòng 1 17th 1 0 0 1 0 1
Hà Lan 1928 Tứ kết 6th 3 1 1 1 9 9
1936 Bỏ cuộc
1948 Không vượt qua vòng loại
1952
1956
1960
1964
México 1968 Tứ kết 5th 4 2 1 1 4 2
1972 Không vượt qua vòng loại
Canada 1976 Vòng 1 13th 2 0 0 2 1 3
Liên Xô 1980 10th 3 0 3 0 2 2
1984 Không vượt qua vòng loại
1988
Tổng cộng 1 lần huy
chương bạc
6/15 18 7 5 6 25 22

Danh hiệu và kỷ lục

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu vô địch:

[sửa | sửa mã nguồn]
  • FIFA World Cup không khung
    • Vô địch (1): 2010
  • UEFA European Championship không khung
  • UEFA Nations League không khung
    • Vô địch (1): 2023
    • Về nhì: 2021
  • FIFA Confederations Cup không khung
  • Olympic Games Football
    • Huy chương vàng không khung: 1992, 2024
    • Huy chương bạc không khung: 1920

Giải thưởng tập thể:

[sửa | sửa mã nguồn]
  • FIFA Fair Play Trophy
    • Thắng giải (4): 2006, 2010, 2013, 2018
  • FIFA Team of the Year
    • Thắng giải (6): 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013
  • Prince of Asturias Award for Sports
    • Thắng giải: 2010
  • Laureus World Team of the Year
    • Thắng giải: 2011

Đội bóng

[sửa | sửa mã nguồn]
Số trận bất bại liên tiếp
35 trận (2007-2009) (bằng với  Brasil từ 1993-1996)
Số trận thắng liên tiếp (bao gồm cả giao hữu)
15 trận (2008-2009)
Số trận bất bại liên tiếp ở các giải đấu chính thức của FIFA
28 trận (2010-2013)[32]
Số trận thắng nhiều nhất bởi 1 huấn luyện viên nước ngoài
13 trận - Vicente del Bosque
Số điểm cao nhất ở vòng loại World Cup
30/30 điểm World Cup 2010, vòng loại bảng 5
Đội vô địch World Cup để thủng lưới ít nhất
2 bàn - World Cup 2010 (bằng với  Pháp, 1998 và  Ý, 2006)

Cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]
Số trận khoác áo nhiều nhất
180- Sergio Ramos
Số bàn thắng nhiều nhất
59 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong 1 mùa giải
13 - David Villa (2008-2009)
Số hattrick ghi được nhiều nhất
3 - Fernando TorresDavid Villa
Số trận ghi bàn liên tiếp
6 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở World Cup
8 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ World Cup
5 - Emilio Butragueño(1986) & David Villa(2010)
Số trận ghi bàn liên tiếp ở World Cup
4 - David Villa(2010)
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở Euro
5 - Fernando Torres
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ Euro
4 - David Villa
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở Confed Cup
8 - Fernando Torres
Số bàn thắng ghi được nhiều nhất ở một kỳ Confed Cup
5 - Fernando Torres

Danh sách cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất

[sửa | sửa mã nguồn]
Sergio Ramos là cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất với 180 trận

Danh sách cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2024:

Các cầu thủ in đậm vẫn đang thi đấu cho đội tuyển.

# Cầu thủ Thời gian khoác áo Số trận Bàn thắng
1 Sergio Ramos 2005–2021 180 23
2 Iker Casillas 2000–2016 167 0
3 Sergio Busquets 2009–2022 143 2
4 Xavi Hernández 2000–2014 133 12
5 Andrés Iniesta 2006–2018 131 14
6 Andoni Zubizarreta 1985–1998 126 0
7 David Silva 2006–2018 125 35
8 Xabi Alonso 2003–2014 114 16
9 Fernando Torres 2003–2014 110 38
Cesc Fàbregas 2006–2016 110 15

Danh sách cầu thủ ghi bàn cho đội tuyển nhiều nhất

[sửa | sửa mã nguồn]
David Villa là cầu thủ ghi bàn cho đội tuyển nhiều nhất với 59 bàn.

Danh sách cầu thủ ghi bàn cho đội tuyển nhiều nhất tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2024:

# Cầu thủ Thời gian khoác áo Bàn thắng Số trận Hiệu suất
1 David Villa 2005–2014 59 98 0.61
2 Raúl González 1996–2006 44 102 0.43
3 Fernando Torres 2003–2014 38 110 0.35
4 Álvaro Morata 2014– 36 80 0.45
5 David Silva 2006–2018 35 125 0.25
6 Fernando Hierro 1989–2002 29 89 0.33
7 Fernando Morientes 1998–2007 27 47 0.57
8 Emilio Butragueño 1984–1992 26 69 0.38
9 Alfredo Di Stéfano 1957–1961 23 31 0.74
Sergio Ramos 2005–2021 23 180 0.04

Số lần ghi bàn trên chấm phạt đền

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 14 tháng 6 năm 2015, có tất cả năm cầu thủ ghi từ 5 bàn thắng trở lên trên chấm phạt đền cho đội tuyển:

Penalties Player
9 Fernando Hierro
Míchel
7 David Villa
6 Xabi Alonso
5 Fernando Torres

Huấn luyện viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Các huấn luyện viên trưởng đội tuyển Tây Ban Nha

Lịch đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội hình

[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là đội hình đã hoàn thành UEFA Nations League 2024–25.
Số liệu thống kê tính đến ngày 9 tháng 9 năm 2024 sau trận gặp Thụy Sĩ.

Số VT Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Trận Bàn Câu lạc bộ
1 1TM David Raya 15 tháng 9, 1995 (29 tuổi) 8 0 Anh Arsenal
13 1TM Álex Remiro 24 tháng 3, 1995 (29 tuổi) 1 0 Tây Ban Nha Real Sociedad
23 1TM Robert Sánchez 18 tháng 11, 1997 (27 tuổi) 2 0 Anh Chelsea

2 2HV Dani Carvajal (Đội phó) 11 tháng 1, 1992 (32 tuổi) 51 1 Tây Ban Nha Real Madrid
3 2HV Robin Le Normand 11 tháng 11, 1996 (28 tuổi) 19 1 Tây Ban Nha Atlético Madrid
4 2HV Pau Torres 16 tháng 1, 1997 (27 tuổi) 24 1 Anh Aston Villa
5 2HV Daniel Vivian 5 tháng 7, 1999 (25 tuổi) 5 0 Tây Ban Nha Athletic Bilbao
12 2HV Álex Grimaldo 20 tháng 9, 1995 (29 tuổi) 8 0 Đức Bayer Leverkusen
14 2HV Aymeric Laporte 27 tháng 5, 1994 (30 tuổi) 37 1 Ả Rập Xê Út Al Nassr
21 2HV Óscar Mingueza 13 tháng 5, 1999 (25 tuổi) 1 0 Tây Ban Nha Celta Vigo
22 2HV Marc Cucurella 22 tháng 7, 1998 (26 tuổi) 11 0 Anh Chelsea

6 3TV Martín Zubimendi 2 tháng 2, 1999 (25 tuổi) 12 0 Tây Ban Nha Real Sociedad
8 3TV Fabián Ruiz 3 tháng 4, 1996 (28 tuổi) 31 6 Pháp Paris Saint-Germain
10 3TV Pepelu 11 tháng 8, 1998 (26 tuổi) 0 0 Tây Ban Nha Valencia
16 3TV Rodri (Đội trưởng) 22 tháng 6, 1996 (28 tuổi) 57 4 Anh Manchester City
18 3TV Aleix García 28 tháng 6, 1997 (27 tuổi) 3 0 Đức Bayer Leverkusen
20 3TV Pedri 25 tháng 11, 2002 (22 tuổi) 26 2 Tây Ban Nha Barcelona

7 4 Yeremy Pino 20 tháng 10, 2002 (22 tuổi) 13 2 Tây Ban Nha Villarreal
9 4 Joselu 27 tháng 3, 1990 (34 tuổi) 15 6 Qatar Al Gharafa
11 4 Ferran Torres 29 tháng 2, 2000 (24 tuổi) 48 21 Tây Ban Nha Barcelona
15 4 Ayoze Pérez 29 tháng 7, 1993 (31 tuổi) 3 1 Tây Ban Nha Villarreal
17 4 Nico Williams 12 tháng 7, 2002 (22 tuổi) 22 4 Tây Ban Nha Athletic Bilbao
19 4 Lamine Yamal 13 tháng 7, 2007 (17 tuổi) 16 3 Tây Ban Nha Barcelona

Triệu tập gần đây

[sửa | sửa mã nguồn]
Vt Cầu thủ Ngày sinh (tuổi) Số trận Bt Câu lạc bộ Lần cuối triệu tập
TM Unai Simón 11 tháng 6, 1997 (27 tuổi) 46 0 Tây Ban Nha Athletic Bilbao UEFA Euro 2024
TM Kepa Arrizabalaga 3 tháng 10, 1994 (30 tuổi) 14 0 Anh Bournemouth v.  Na Uy, 15 October 2023

HV Jesús Navas RET 21 tháng 11, 1985 (39 tuổi) 56 5 Tây Ban Nha Sevilla UEFA Euro 2024
HV Nacho 18 tháng 1, 1990 (34 tuổi) 29 1 Ả Rập Xê Út Al Qadsiah UEFA Euro 2024
HV Pau Cubarsí 22 tháng 1, 2007 (17 tuổi) 3 0 Tây Ban Nha Barcelona UEFA Euro 2024 PRE
HV Pedro Porro 13 tháng 9, 1999 (25 tuổi) 3 0 Anh Tottenham Hotspur v.  Brasil, 26 March 2024
HV José Gayà 25 tháng 5, 1995 (29 tuổi) 22 3 Tây Ban Nha Valencia v.  Colombia, 22 March 2024 INJ
HV Iñigo Martínez 17 tháng 5, 1991 (33 tuổi) 21 1 Tây Ban Nha Barcelona v.  Gruzia, 19 November 2023
HV Eric García 9 tháng 1, 2001 (23 tuổi) 19 0 Tây Ban Nha Barcelona v.  Gruzia, 19 November 2023
HV David García 14 tháng 2, 1994 (30 tuổi) 3 0 Qatar Al Rayyan v.  Gruzia, 19 November 2023
HV Fran García 14 tháng 8, 1999 (25 tuổi) 2 0 Tây Ban Nha Real Madrid v.  Na Uy, 15 October 2023
HV Alfonso Pedraza 9 tháng 4, 1996 (28 tuổi) 1 0 Tây Ban Nha Villarreal v.  Na Uy, 15 October 2023
HV Alejandro Balde 18 tháng 10, 2003 (21 tuổi) 7 0 Tây Ban Nha Barcelona v.  Scotland, 12 October 2023 INJ

TV Dani Olmo 7 tháng 5, 1998 (26 tuổi) 40 11 Tây Ban Nha Barcelona v.  Thụy Sĩ, 8 September 2024 INJ
TV Mikel Merino 22 tháng 6, 1996 (28 tuổi) 28 2 Anh Arsenal UEFA Euro 2024
TV Álex Baena 20 tháng 7, 2001 (23 tuổi) 5 1 Tây Ban Nha Villarreal UEFA Euro 2024
TV Fermín López 11 tháng 5, 2003 (21 tuổi) 2 0 Tây Ban Nha Barcelona UEFA Euro 2024
TV Marcos Llorente 30 tháng 1, 1995 (29 tuổi) 19 0 Tây Ban Nha Atlético Madrid UEFA Euro 2024 PRE
TV Pablo Sarabia 11 tháng 5, 1992 (32 tuổi) 27 9 Anh Wolverhampton Wanderers v.  Brasil, 26 March 2024
TV Oihan Sancet 25 tháng 4, 2000 (24 tuổi) 4 1 Tây Ban Nha Athletic Bilbao v.  Brasil, 26 March 2024
TV Gavi 5 tháng 8, 2004 (20 tuổi) 27 5 Tây Ban Nha Barcelona v.  Gruzia, 19 November 2023
TV Rodrigo Riquelme 2 tháng 5, 2000 (24 tuổi) 2 0 Tây Ban Nha Atlético Madrid v.  Gruzia, 19 November 2023

Mikel Oyarzabal 21 tháng 4, 1997 (27 tuổi) 38 12 Tây Ban Nha Real Sociedad v.  Thụy Sĩ, 8 September 2024 INJ
Álvaro Morata 23 tháng 10, 1992 (32 tuổi) 80 36 Ý AC Milan UEFA Euro 2024
Gerard Moreno 7 tháng 4, 1992 (32 tuổi) 18 5 Tây Ban Nha Villarreal v.  Brasil, 26 March 2024
Ansu Fati 31 tháng 10, 2002 (22 tuổi) 10 2 Tây Ban Nha Barcelona v.  Na Uy, 15 October 2023
Bryan Zaragoza 9 tháng 9, 2001 (23 tuổi) 1 0 Tây Ban Nha Osasuna v.  Na Uy, 15 October 2023

Chú thích:

  • INJ Cầu thủ rút lui vì chấn thương
  • PRE Danh sách sơ bộ.
  • RET Cầu thủ đã giã từ đội tuyển quốc gia

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "La Roja" from Miguel, Spain”. ngày 17 tháng 6 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2010.
  2. ^ “La Roja lean to the left”. FIFA. ngày 16 tháng 6 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2012.
  3. ^ “Statistics – Most-capped players”. European football database. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2016.
  4. ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. ngày 4 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2024.
  5. ^ Elo rankings change compared to one year ago. “World Football Elo Ratings”. eloratings.net. 30 tháng 11 năm 2022. Truy cập 30 tháng 11 năm 2022.
  6. ^ Brazil, Tây Ban Nha nhận giải thưởng fairplay Lưu trữ 2014-12-25 tại Wayback Machine Tuổi Trẻ Online
  7. ^ Tây Ban Nha 3-0 Nga Lưu trữ 2013-10-22 tại Wayback Machine VnExpress
  8. ^ Tây Ban Nha lần thứ hai vô địch Euro Ngoisao.net
  9. ^ ĐHTB Euro 2008 Lưu trữ 2013-05-07 tại Wayback Machine Tienphong.vn
  10. ^ “Del Bosque chính thức ra mắt làm HLV đội tuyển Tây Ban Nha”. Báo Thể thao & Văn hóa - Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2020. Truy cập 2 tháng 2 năm 2016.
  11. ^ Confederations Cup 2009: Thắng Nam Phi 3 - 2, Tây Ban Nha giành giải ba Lưu trữ 2009-07-02 tại Wayback Machine Sài Gòn Giải Phóng Online
  12. ^ Lượt trận cuối bảng H (rạng sáng 26-6) Tây Ban Nha - Chile 2-1 Lưu trữ 2016-03-05 tại Wayback Machine Sài Gòn giải phóng Online
  13. ^ Thắng Paraguay 1 - 0, Tây Ban Nha tiến vào bán kết Lưu trữ 2011-01-06 tại Wayback Machine Sài Gòn giải phóng Online
  14. ^ Bán kết World Cup 2010 Đức – Tây Ban Nha 0-1: Bất ngờ cuối cùng Lưu trữ 2012-03-24 tại Wayback Machine Online Thiếu Niên
  15. ^ Hà Lan - Tây Ban Nha 0-1: Iniesta đưa "vua" châu Âu lên đỉnh thế giới Thể thao & Văn hóa
  16. ^ Iker Casillas giành giải thưởng găng tay vàng Lưu trữ 2010-07-17 tại Wayback Machine Giáo dục & Thời đại Online
  17. ^ EURO 2012 - Bảng C: Tây Ban Nha hòa Italia 1 - 1 Lưu trữ 2012-09-27 tại Wayback Machine Sài Gòn giải phóng Online
  18. ^ Torres lập cú đúp, Tây Ban Nha đại thắng Cộng Hòa Ireland Diễn đàn Dân Trí Việt Nam
  19. ^ Tây Ban Nha 1-0 Croatia: Tiếc cho "kẻ bại trận" Lưu trữ 2012-06-21 tại Wayback Machine Tin Thể thao
  20. ^ Tây Ban Nha 2 - 0 Pháp: Alonso tiễn Pháp về nước[liên kết hỏng] Đài tiếng nói Việt Nam
  21. ^ Bồ Đào Nha 0 - 0 Tây Ban Nha (luân lưu: 2-4): TBN vào chung kết Giáo dục Việt Nam
  22. ^ Tây Ban Nha 4-0 Italia: "La Roja" đi vào lịch sử Lưu trữ 2012-11-07 tại Wayback Machine Thể thao & Văn hóa. Thứ Hai, 02/07/2012 01:34
  23. ^ Tây Ban Nha 2-1 Uruguay: Tiki-taka hồi sinh Lưu trữ 2013-06-21 tại Wayback Machine VnExpress
  24. ^ Torres-Villa rực sáng, Tây Ban Nha "hủy diệt" Tahiti 10-0 Lưu trữ 2013-08-02 tại Wayback Machine Diễn đàn Dân Trí Việt Nam
  25. ^ Nigeria-Tây Ban Nha (0-3): Chia tay Đại bàng xanh Lưu trữ 2013-07-30 tại Wayback Machine Dân Việt
  26. ^ Tây Ban Nha 0-0 Italia (Penalty 7-6): Thắng nghẹt thở, TBN hẹn Brazil ở trận chung kết Lưu trữ 2013-06-30 tại Wayback Machine Thể thao & Văn hóa. Thứ Năm, 27/06/2013 21:55
  27. ^ “La agenda del día: 13 de junio”. FIFA.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2014. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  28. ^ “Van Gaal masterminds Dutch destruction of Spain”. ESPN.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  29. ^ “World Cup: Spain go out of World Cup after 2-0 loss to Chile”. SkySports. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  30. ^ “Australia v Spain”. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2014. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  31. ^ a b c Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu
  32. ^ “Tây Ban Nha đã lập nên kỷ lục "vô tiền khoáng hậu". Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. 24 tháng 6 năm 2013. Truy cập 2 tháng 2 năm 2016.[liên kết hỏng]
  33. ^ “Full Time Report – Spain v Italy” (PDF). UEFA.com. Union of European Football Associations. 20 tháng 6 năm 2024. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2024.
  34. ^ “Full Time Report – Albania v Spain” (PDF). UEFA.com. Union of European Football Associations. 24 tháng 6 năm 2024. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2024.


Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh hiệu
Tiền nhiệm:
 Liên Xô
Vô địch châu Âu
1964
Kế nhiệm:
 Ý
Tiền nhiệm:
 Ý
Vô địch châu Âu
2024
Kế nhiệm:
Đương kim vô địch
Tiền nhiệm:
 Hy Lạp
Vô địch châu Âu
2008, 2012
Kế nhiệm:
 Bồ Đào Nha
Tiền nhiệm:
 Ý
Vô địch thế giới
2010
Kế nhiệm:
 Đức